Monday 23 November 2015

Bàn về số phận


Khi ta nóng giận, oán thán, căm ghét vì một việc gì đó hoặc một ai đó thì ta cố ghìm mình để tránh việc nói năng mất kiểm soát hay thượng cẳng chân, hạ cẳng tay, hay đưa ra hành động trả thù ... Đây là một thứ hiện tượng chắc không ai chưa trải qua bao giờ. Chúng ta hãy cùng phân tích hiện tượng trên và thấy những điều kỳ diệu của những quy luật mà ta đã từng trải qua. 
Ta nóng giận, oán thán, căm ghét ... thì ở đây là Ta đang trong cái cảm xúc đó rồi. Còn ta đang cố kìm nén cảm xúc đó để tránh gây hậu quả ... vậy là có một cái Ta nữa. Và cái Ta thứ nhất kia nó cứ thúc giục, dẫn dắt, thậm chí nó đánh bạt cái Ta thứ hai đang cố kìm nén để gây ra hậu quả. Hoặc cái Ta thứ hai mạnh mẽ và ngạo nghễ đè bẹp, hoá giải được cái Ta thứ nhất. 
Cái Ta thứ nhất chính là các duyên khởi dấy lên trong Tâm ta, còn cái Ta thứ hai là cái ý chí, trí tuệ phân tích sự việc của chúng ta được học tập, rèn luyện và đúc rút kinh nghiệm qua năm tháng sống trên cõi thế gian này giúp thân ta hành động phù hợp, gọi ngắn gọn lại là cái Ý.
Vậy là các duyên khởi dấy lên ở Tâm nó là tự phát, nó phát ra từ đâu, cách thức nó xuất hiện như thế nào ? Mục đích của nó là gì ? Cách thức mà nó thực hiện để đạt được mục đích như thế nào ? Và nó bị hoá giải như thế nào ? 
Về cái Ý nói ở trên thì nó ở đâu ra, nó được rèn luyện như thế nào ? Cách thức để huy động cái ý hoá giải các duyên khởi khi cần như thế nào ?

Tạm gác các câu hỏi và trả lời lại sau, xin giãi bày những suy ngẫm cùng quý vị về sự cảm nhận hai cái Ta ( TÂM và Ý ) để thấy duyên khởi dẫn dắt cuộc sống, số phận chúng ta. Ví như tự dưng duyên khởi dấy lên nơi tôi là viết về sự nhận biết rõ cái Tâm và cái Ý, nhưng ngay lập tức lại có ý phân tích là viết làm gì, khua môi múa mép trên mạng có ai đọc làm gì, dở hơi, háo danh ... Sau đấy tôi bận một số công việc và quên đi, nhưng khi ngơi hết công việc lại thấy ám ảnh việc trên. Cuối cùng thì thằng thứ nhất đã thắng và ta theo ý nó để viết ra rồi úp lên fb và lại ngẫm xem việc này tạo ra quả nghiệp gì ? ( bài đang viết đây - cụm từ sửa sau khi up ).
Rồi tự ngẫm lại những người thành đạt trong một lĩnh vực nào đó thì thực sự thấy thấp thoáng sự dẫn dắt của các duyên khởi thật mạnh mẽ, họ có thể bỏ hết những gì là tốt đẹp hiện có ( theo suy nghĩ của mọi người ) để dấn thân vào sự đam mê mà duyên khởi dẫn dắt họ. Nhưng cũng có người duyên nghiệp không may mắn thì các duyên khởi lại dẫn dắt họ đến những bước trả nghiệp đau buồn ...
Từng ý tưởng ta theo đuổi, từng ánh sáng trí tuệ loé sáng trong tiềm thức, từng áng thơ tuôn chảy, từng bài diễn thuyết hùng hồn, từng hành động nhân tính hay dã man, từng cách đối nhân xử thế hàng ngày, từng suy nghĩ đến việc làm hàng ngày, ... tất thảy đều có sự dẫn dắt vi diệu của bàn tay nghiệp lực. Con người có số phận không ? Tôi trả lời rằng có, và số phận được dẫn dắt như vậy đó !
http://tamythan.blogspot.com/2015/11/ban-ve-so-phan.html

Bàn về Tâm bệnh





Chúng ta thường nghe nói câu Tâm bệnh và luận theo quy nạp ngũ hành là sợ thì hại thận, vui mừng thì hại tâm, lo lắng thì hại tỳ, giận dữ thì hại can, buồn thì hại phế. Tiếp theo đưa ra pháp điều trị các chứng bệnh có liên quan đến các tạng phủ, vệ vinh khí huyết, huyệt vị kinh lạc, tinh khí thần ... để lấy lại cân bằng cho cơ thể, kèm theo lời khuyên cho việc giải quyết Tâm bệnh là bệnh nhân nên điều hoà tâm lý, giữ thăng bằng các cảm xúc, tình cảm để tránh ảnh hưởng đến sức khoẻ ... Như vậy việc chữa trị của chúng ta mới là ở phần ngọn ( nơi cơ thể - các tạng phủ, vệ vinh khí huyết, huyệt vị kinh lạc, tinh khí thần .. ) còn phần gốc ( Tâm bệnh ) thì thật là chưa đưa ra pháp chữa thoả đáng vậy. Chúng ta chữa các bệnh cho cơ thể bệnh nhân có thể thành công trong một giai đoạn, nhưng cái gốc là Tâm bệnh vẫn còn đó thì chả mấy người bệnh đó lại rơi vào vòng xoáy của nghiệp bệnh.
Tâm bệnh là thế nào đây ? Một vấn đề mông lung và nan giải vì nói đến cái Tâm thì đã là quá trừu tượng rồi, mà quá trừu tượng thì rất khó nắm bắt cách thức hoạt động của Tâm, cái nguyên nhân gây ra Tâm bệnh và pháp chữa như thế nào ? Khi người bệnh cứ dấy lên sự lo âu hay giận dữ hận thù, nóng nảy vội vàng, ghen ghét đố kỵ ... chúng ta khuyên họ hãy bình tĩnh, điều hoà được không ? Xin thưa với các quý vị rằng chỉ có thể được trong chốc lát, thậm chí không thể được vì trong họ cái duyên khởi tạo nên thứ tình chí đó cứ ngùn ngụt che mờ trí huệ nơi họ, quyết dẫn dắt họ theo nghiệp quả đã định. Dứt ra khỏi tình trạng đó ư, có thể cả đời người không thể thoát hoặc có thể đến thời điểm duyên nghiệp viên thành, đó cũng chính là nghĩa thọ nghiệp khổ của con người chúng ta. Cái thời điểm duyên nghiệp viên thành ở đây thật rộng lớn và vi diệu theo thuyết nhân quả bởi chỉ một nhân tố rất nhỏ của sự vật hiện tượng cũng có thể làm con người ta ngộ ra được cái Tâm mình đang lạc lối như thế nào, hoặc gặp được pháp vi diệu, hoặc có thể phải trả giá bằng tiền bạc, sinh mạng, bằng bệnh tật ... 

Xin thưa với quý vị, tôi đây là một con người bình thường, sống theo cuộc sống đời thường dân dã, không danh vọng, chức tước, tiền bạc thì chả dư giả ( chỉ tạm trang trải cho cuộc sống bản thân và gia đình trong cuộc sống đạm bạc thường ngày ), có điều thường đọc sách vở, chép ghi và ngẫm ngợi, tâm thường hướng tới việc thiện, tránh xa việc ác, đố kỵ, tham lam. Tôi cũng có thời gian dài may mắn thăm lễ chùa Hương hàng năm, và rồi thật may mắn trên con đường Tâm đạo là khi suy diễn sự sống chết và tò mò tìm hiểu cái ta là ai thì được dẫn dắt đến với Phật Pháp. Đến với Phật Pháp, bản thân tôi thấy luận về Pháp thật mông mênh, sách về kinh Phật, luận bàn thật vô lượng không kể hết, nhưng sau thời gian dài đọc ngẫm tôi cảm nhận và ý thức được rằng đạo Phật là đạo diệt khổ ban vui, giúp chúng sinh thoát kiếp khổ. Phần lý thuyết chính là Tứ diệu đế và Bát chánh đạo còn phần thực hành là thiền quán ( Tứ Niệm Xứ ), tự nhận thấy rằng đạo Phật như là một môn khoa học về Tâm trong một sự trừu tượng bao hàm tất thảy mọi sự vật hiện tượng thuộc về thuyết nhân quả.
Khi thực hành thiền quán ( Tứ Niệm Xứ ), mặc dù bản thân chỉ ở mức sơ khai chưa đạt đến tầng sơ thiền, nhưng tôi cảm nhận rõ rằng Tâm có những quy luật có thể nhận thấy rõ là những lo âu, buồn, vui, ganh ghét, đố kỵ, tức giận ... ( thất tình chí ) được khởi lên trong Tâm ta theo một cách thức dẫn dắt, lôi kéo ý chí và ý thức của chúng ta, rồi từ đó điều khiến cơ thể ta hành động. Quá trình này diễn biến rất nhanh khiến bình thường chúng ta không nhận ra, chỉ đến một mức nào đó trong luyện tập thiền quán chúng ta sẽ nhận thấy điều này. Ngoài những thứ thuộc thất tình chí còn có nhiều thứ khởi lên trong tâm ta từ các giác quan ( âm thanh, mùi vị, cảm giác, hình ảnh ... ), hay ảo giác, hồi ức, vọng tưởng, một điều gì đó như ta đã từng trải qua ... Tất cả những thứ này và thất tình chí ta gọi chung là duyên khởi. Các duyên khởi này tự xuất hiện trong Tâm, nhiều lúc ý chí chúng ta không kiềm soát và kiềm chế nổi bởi mức độ và tần suất của nó, nó khiến cơ thể chúng ta hành động để tạo nghiệp và chỉ khi tạo nghiệp rồi thì ý chí của chúng ta mới lại được các duyên khởi khác dẫn dắt để ngộ ra sự sai lầm hay sự đúng đắn của các hành động trước đây.
Cũng qua luyện tập thiền quán tôi cảm nhận được cách thức mà thiền Tứ Niệm Xứ xoá bỏ được những duyên khởi dấy lên nơi Tâm, đó chính là quán niệm. Với phương thức niệm tên tất cả những gì chúng ta thấy, cảm nhận thấy chính là ta bắt ý chí, ý thức chúng ta nắm bắt những duyên khởi dấy lên ở Tâm ta và như vậy không còn chỗ trống để chúng ta chuyển ý nghĩ sang hành động của cơ thể, đương nhiên như vậy thì nghiệp quả được dẫn dắt từ Tâm sẽ không viên thành và cơ thể chúng ta sẽ được nghỉ ngơi. Chuỗi nghiệp quả bị cắt đứt sẽ kéo theo các duyên khởi dấy lên từ Tâm sẽ dần bị đoạn trừ. Dần dần Tâm ta ít các duyên khởi dấy lên và đến một thời điểm nảo đó khi ý chí chúng ta nắm bắt và niệm song hành với bất kỳ một duyên khởi nào dấy lên trong Tâm sẽ dẫn tới trạng thái Tâm tĩnh lặng ( định Tâm ). Với cách thức như vậy thì thiền Tứ Niệm Xứ chính là pháp chữa Tâm bệnh mà không vị thuốc cũng như pháp chữa nào khác hiệu nghiệm hơn.
Cũng qua những chia sẻ ở trên, bản thân tôi cho rằng chúng ta hầu như ai cũng có Tâm bệnh, bởi chưa loại trừ hết tham sân si, chưa xoá bỏ hoàn toàn thất tình chí, vậy đều có Tâm bệnh và đều có nguy cơ khiến Thân bị bệnh bởi Tâm dẫn dắt Ý, Ý điều khiển Thân, Thân hành động. Trường hợp đạt trạng thái Tâim tĩnh lặng ( định tâm ) hoặc cao hơn nữa ta cũng phải luôn luôn tu tập và phòng chữa bệnh vì môi trường quanh ta xâm nhập vào các giác quan, bộ phận cơ thể từng giây, từng phút khiến tấm thân ta bị hư hoại dần mòn rồi đến lúc huỷ hoại ... vậy nên về cơ thể thì cõi Phật vẫn trong cõi sinh diệt. 
Ngày chủ nhật dông dài, kẻ dân dã này có đôi phút khua môi múa mép, có gì mạo phạm mong các bậc cao minh soi xét mà bỏ quá cho vì sở học và thực hành đạo Phật còn nông cạn, hiểu biết về mọi mặt còn nhiều thiếu sót. Cũng mong sự chỉ giáo của tất cả mọi người ! Chân thành cám ơn !

Chú giải:
1/ Tứ Niệm Xứ - là pháp thiền nguyên thuỷ mà Phật đã chỉ dạy, sau đó được các Phật tử lưu truyền đến ngày nay. Thường gọi tắt là Thiền quán hay Thiền Phật.
2/ Thất tình chí - là bẩy trạng thái tình cảm của con người ( vui mừng, giận dữ, thương yêu, buồn đau, lo nghĩ, sợ hãi, ghét ). Có sách nói "Thất tình" là: Hỷ - Nộ - Ưu - Tư - Bi - Khủng - Kinh. "Hỷ" là vui vẻ, sung sướng; "nộ" là tức giận; "ưu" là u sầu, buồn bã; "tư" là tư lự, lo nghĩ, "bi" là đau buồn, đau thương; "khủng" là sợ hãi; "kinh" là kinh hãi, sửng sốt quá mức. Trong Đông y, "thất tình chí" được sử dụng để chỉ 7 loại "tình chí" (tình cảm, tinh thần) - có liên quan mật thiết đến sức khỏe và bệnh tật. Có sách nói thất tình chí gồm: hỷ, nộ, ái, ố, uý, ưu, bi. Sách Tam tự kinh viết thất tình chí là: hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục ( vui mừng, giận dữ, buồn bã, vui vẻ, yêu thương, ghét, ham muốn )
3/ Tham sân si - là 3 phạm trù thuộc về Tâm của đạo Phật ( tham lam, sân hận, si mê ).
4/ Quán niệm - là quán sát và niệm. 
Quán sát là dùng cái ý chí, trí tuệ của mình để quan sát, theo dõi hơi thở, các cảm nhận, cảm giác, cảm xúc, tâm tưởng, ý nghĩ,  ... xuất hiện ở môi trường xung quanh tác động vào ta, ở trong thân thể ta, ở trong tâm ta.  
Niệm là đọc tên nội dung tương ứng với các điều mà bản thân quán sát được ở trên. Niệm là cách đọc mà không thành tiếng, không mấp máy môi ( đọc trong đầu ).
( lời chưa rõ hết được ý, ý vẫn còn chưa thông đạt bởi cũng chỉ là người đang chập chững bước trên con đường chỉ dạy của Phật ... những gì truyền đạt lại cho chúng ta ngày nay là do hậu thế nhớ lại, ghi chép lại nên thật giả khó thấy, bản thân mỗi người cảm nhận được âu cũng là cái duyên dẫn dắt cho mỗi chúng ta. Hậu thế cũng từng ghi lại lời Phật nói : hãy tự thắp sáng ngọn đuốc mà đi ! )
5/ Duyên khởi - là tên gọi chung cho các cảm nhận, cảm giác, tâm tưởng xuất hiện khi quán sát.

Thursday 22 October 2015

NHÀN


Bóng cây mờ ảo 
Ánh trăng nghiêng soi
An nhàn tự tại 

Chữ nguyệt trong chữ môn hay chữ mộc trong chữ môn là chữ NHÀN 

Wednesday 21 October 2015

Luận bàn về TÂM và Ý

   ( Xin quý vị hãy gạt bỏ những ý nghĩ dấy lên trong Tâm mình về người viết những dòng chữ dưới đây trước khi đọc chúng. Hãy để Tâm thư thái nhất, chỉ chú Tâm vào nội dung từng câu viết, đừng để ý đến người viết ra nó. )

Không làm mọi điều ác
Thành tựu các hạnh lành
Tâm ý giữ trong sạch
Chính lời chư Phật dạy
( kinh Pháp cú câu 183 )

   Trong rất nhiều luận bàn cũng như sách ghi chép lại từ cổ xưa nói về Tâm và Ý thường không rõ được những phạm trù này, thậm chí còn mặc định nó là một. Ngay cả kinh Phật lưu truyền lại thì ở bản chữ pàli dịch qua tiếng Anh nói là Tâm, nhưng sang bản chữ Hán thì là Ý, rồi khi dịch nghĩa sang tiếng Việt cũng là Ý:
Ví dụ câu 1 trong kinh Pháp cú:
- Dịch từ chữ pàli qua tiếng Anh và dịch sang tiếng Việt : 
Trong các pháp, Tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo
- Dịch từ bản pàli qua chữ Hán sang tiếng Việt: 
Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý ô nhiễm
nói lên hay hành động
Khổ não bước theo sau
như xe, chân vật kéo
   Trong khí đó hai phạm trù Tâm và Ý vẫn được kinh Phật nhắc lại  như một sự tồn tại riêng biệt nhưng luôn đi song hành với nhau ở câu 183 trong kinh Pháp cú ( đã trích dẫn ở đầu trang ).
Đây là một vấn đề trừu tượng và thâm sâu nhất về học thuật nghiên cứu những quy luật của nhân quả, bản thân tôi thấy choáng ngợp và run sợ khi nghĩ tới việc luận bàn, bởi từ vài ngàn năm nay thì có bao nhiêu các bậc cao nhân, chư tăng đã sao chép, gom nhặt để lưu lại những tri thức tối thượng này cho đời chúng ta ngày nay. Nhưng thật tình thì tự Tâm tôi cứ cảm nhận thấy những điều mình đọc được qua kinh sách và những lời giãi bày của rất nhiều người có tìm hiểu, nghiên cứu về đạo Phật vẫn thấy không nêu được rõ ràng hai phạm trù Tâm và Ý, thậm chí còn có quan niệm là một. Qua thời gian may mắn có được duyên dẫn dắt đến với những kinh truyền của Phật, đồng thời tự bản thân tu tập theo phép thiền quán Tứ Niệm Xứ, trong tôi ngày một sáng tỏ hai phạm trù này. Mỗi ngày một nhận thấy rõ ràng hơn về Tâm và Ý và cách thức vận hành tạo nghiệp qua Tâm - Ý - Thân, cảm nhận được Tâm và Ý như là hai thực thể vật chất có thật, rành rành. Có thể có nhiều cách gọi, đặt tên cho hai phạm trù này như Tâm thức, tiềm thức, Tâm và trí ... nhưng nó vẫn đã và đang tồn tại trong chính mỗi con người vậy.
   Cũng từ những giác ngộ khi có duyên tiếp cận những Pháp của Phật và thiền Tứ Niệm Xứ tôi tự nhận thấy sự vận hành, kết hợp và nguyên lý để rèn Tâm sửa Ý thật diệu kỳ. Ở đây, việc rèn Tâm, diều hoà Tâm từ cách dùng Ý thực sự là một môn khoa học có logic, và có được những kết quả vi diệu. Khi đã hiểu và cảm nhận được những luận giải như sẽ trình bày dưới đây thì tôi cũng như quý vị sẽ thấy không có bóng dáng của mê tín, dị đoan trong các Pháp của Phật. 

PHẠM TRÙ TÂM
   Hãy hình dung Tâm ta như một bộ nhớ của các thiết bị vi tính hiện đại ngày nay. Và Tâm sẽ lưu lại tất cả những gì chúng ta thấy, cảm nhận thấy từng giây, từng phút ... cả cuộc đời. Những điều chúng ta muốn hay không muốn cũng được ghi nhận lại và dần dần nó tạo thành tầng tầng lớp lớp lưu trữ ở trong Tâm, khi cần chúng ta có thể lục tìm được chúng hoặc bất chợt chúng hiển hiện lên khiến ý thức chúng ta cảm nhận thấy một cách rõ ràng. 
Khi chúng ta dùng ý chí (Ý ) của mình để theo dõi những gì xuất hiện nơi Tâm ta, ta thấy nó luôn thay đổi và thật khó đoán định. Như khi ta thấy Tâm ta đang chú ý nghe giảng bài thì bất chợt thấy nó lại dẫn ta nghĩ đến muốn nói chuyện với bạn bên cạnh, hoặc như ta đang đọc những dòng chữ này thì Tâm ta lại hiện lên câu hỏi rằng người viết này có đáng tin không hoặc như ôi dào ông này dở hơi viết lung tung, đã làm được cái gì cho đời, hoặc như ta đang nói chuyện với bạn bè thì chợt nghĩ đến công việc cơ quan đang dở dang, vi diệu hơn như khi ta biết một tin về lợi nhuận nuôi cá lồng bè từ một bài viết trên internet và nhân dịp về quê ta kể chuyện lại cho một người bạn thì sau đó một thời gian người bạn đó nuôi cá lồng bè và thu nhập tiền tỷ một năm ... vvv rất nhiều những điều được ghi nhớ trong Tâm và khởi lên trong ta vào một lúc nào đó. Vậy là có tầng tầng lớp lớp những duyên khởi ( gọi chung cho những ký ức đã lưu trữ trong Tâm qua muôn kiếp người ) được lưu trữ trong Tâm để có thể dấy lên bất cứ lúc nào để ảnh hưởng, tạo tác cho ý nghĩ, phân tích của chúng ta. Làm cách nào để chúng ta bóc bỏ chúng ra dần dần dần cho đến khi còn cái Tâm nguyên thuỷ. Tâm nguyên thuỷ được hiểu nôm na như là một chiếc đĩa cd trắng hay một bộ nhớ trống vậy, hay là trạng thái Tĩnh lặng của Tâm, hay như định Tâm trong thiền định. 

   Ta cũng có thể hình dung mỗi chúng ta có một cái Tâm nguyên thể ban đầu vô thức ( như một bộ nhớ trống mới tinh ), rồi khi trải qua một kiếp ( người hay vật hay gì đó ) Tâm sẽ ghi lại tất cả những gì của kiếp đó. Khi thể xác ta mất đi thì những ký ức đó vẫn còn trong Tâm ta, nhưng đã được mã hoá để tiếp đến kiếp sau là một lớp ký ức lại ghi thêm vào, rồi mã hoá để lại ghi tiếp ... Cứ như vậy thì tầng tầng lớp lớp ký ức đã được ghi lại và mã hoá. Các ký ức này có thể hiển hiện, dẫn dắt Ý của ta bất kỳ một lúc nào đó, nhưng với một cách vi diệu mà chúng ta khó mà nắm bắt được cũng như là tìm lại được những ký ức đó ( thực tế thì gần như tất cả chúng ta chỉ có thể tìm thấy những ký ức trong kiếp ta đang sống mà thôi ). Để giải những mã hoá đã khoá chặn sự truy tìm ký ức của chúng ta qua mỗi kiếp như vậy là con đường của Phật, con đường rèn luyện tu tập đã được Phật chỉ ra từ cách đây hơn 2500 năm.

 PHẠM TRÙ Ý
   Ý là cái ý chí, trí tuệ mà chúng ta có được qua quá trình học hỏi, tích luỹ kinh nghiệm từ lúc sinh ra trong kiếp sống hiện tại này. Cũng từ cái Ý mà ta lĩnh hội được kiến thức từ việc đọc, từ việc nghe, nhìn ... Nếu cái Tâm dẫn dắt chúng ta nhưng Ý chúng ta chưa nắm được, sự phân tích chưa đến độ chín muồi ... coi vậy như chúng ta chưa có duyên để thấu hiểu trong một lĩnh vực nào đó ... Cũng từ cái Ý chúng ta rèn Tâm, sửa Tâm để tạo dựng nhân quả cho kiếp sống của mình.

NGUYÊN LÝ CỦA THIỀN TỨ NIỆM XỨ
   Cũng như việc ta quay tua lại một cuốn băng để trở về điểm đầu tiên của sự ghi nhận thì thiền Tứ Niệm Xứ dùng Ý của mình để niệm ( đọc ) những điều Tâm thấy, Tâm cảm nhận ( là những duyên khởi - những ký ức được lưu lại trong tâm dấy lên hoặc những cảm nhận qua các giác quan của cơ thể ghi vào tâm ở thời điểm đang thiền ). Thời gian đầu thì ý của chúng ta luôn đi sau những điều này, nhưng rồi dần dần việc tu tập của chúng ta tiến triển thì ý đi theo sát, nắm bắt và niệm kịp thời những duyên khởi khiến Tâm luôn được kiểm soát, đồng thời Ý cũng không có thời gian phân tích và điều khiến Thân thể ta được. Khi này ta thấy tất cả mọi thứ ập đến hay những thứ tự gợi lên từ Tâm đều thay đổi liên tục. Khi Ý đuổi kịp duyên khởi nơi Tâm thì chuỗi quan hệ tạo lập Nhân Quả ( TÂM tạo tác Ý, Ý sai khiến Thân và Thân hành động ) bị phá vỡ. Tâm không dẫn dắt ý của ta được và Ý cũng không có đủ thời gian để phân tích rồi sai phái Thân ta hành động để hoàn tất một Nghiệp do Tâm mong muốn ( mỗi khi Ý phân tích là Tâm lại dẫn dắt và ta lại niệm lên khiến Ý không thể chuyển những phân tích đó thành hành động nơi cơ thể chúng ta vậy ) .. Lúc này tương tự như cuộn băng đã tua về điểm đầu, và như vậy Tâm rơi vào trạng thái tĩnh lặng, Thân ( cơ thể ) được nghỉ ngơi. Để đạt được trạng thái này thì chúng ta phải hình dung sự tu tập ý chí ( cái Ý nói ở trên ) phải rất bền bỉ và chăm chỉ cùng với giữ giới trong cuộc sống thường ngày để loại bớt những duyên khởi tạo lên cho Tâm giúp Ý nắm bắt các duyên khởi một cách vi diệu hơn. Quý vị có thể hình dung trạng thái Tâm tĩnh lặng này là ta đã bóc hết các lớp ký ức đã được lưu trữ trong Tâm ta ở trong kiếp này, tương tự như Tâm ta thời điểm trước khi ta ở trong bào thai của Mẹ ( hay còn gọi là giai đoạn sơ thiền )
   Còn qua được giai đoạn sơ thiền này chúng ta sẽ mở các mã hoá bằng thiền TỨ NIỆM XỨ để bước tiếp vào các kiếp tiếp theo trước đó. Cả một thế giới mới mở ra cho chúng ta những điều vi diệu, chúng ta có thể có những khả năng đã có ở những kiếp trước và biết điều hoà được tâm, tĩnh tâm sống an lạc, tạo dựng nhân quả an lành cho kiếp sống của mình. Nhũng luận giải và mô tả tiếp thì thú thực với quý vị là tôi chưa có được khả năng đó, nhưng tự bản thân tôi nhận cảm thấy rõ con đường và ánh sánh chỉ lối của Phật. 

   Chia sẻ những cảm nhận và ý nghĩ ra đây âu cũng là cái thú viết lách và quý vị nào có duyên cảm nhận tương ngộ thì thật là hoan hỷ với bản thân tôi, còn quý vị nào thấy tầm phào, hoang tưởng thì cũng hoan hỷ thông cảm cho những bộc bạch từ suy nghĩ chân thành của tôi vậy. Chúc quý vị may mắn và an lành !



Monday 19 October 2015

Những nẻo đường

Dặt dẹo trên đường phố Hà Nội
Trăng và điện đua nhau khoe sáng
Ba thằng tôi khua chân về đất lạ
Đi cứ đi, nơi đến chưa đến
Không biết đến nơi thăm cô bạn
Có gặp không hay đã ngủ khè ...

Cô bạn ơi từ khi đến với đời
Tôi mới thấy cái không bình thường nhất
Bởi với tôi em là cú sét
Xuyên tim tôi bằng ánh mắt ghê người !

( Tôi, Bình xốp và Dự lần đầu tới thăm em Hằng TCXD. Viết tại ký túc xá trường đại học kiến trúc Hà Nội, tháng 5/1992 )


Sunday 18 October 2015

Lá cúc tần


Bên đường hàng cúc tần xanh ngắt
Nắm trong tay hương ngai ngái nồng nàn
Và hôm ấy em bên tôi
Bối rối trên tay ... lá cúc tần ...

( Viết tại ký túc xá, trường đại học kiến trúc Hà Nội, ngày 16/8/1992 )

Tâm điều đắc an lạc


Khó nắm giữ, khinh động
theo các dục quay cuồng
Lành thay điều phục tâm
tâm điều, an lạc đến 
Tâm phàm phu cứ xoay vần theo ngũ dục, dao động không dễ nắm bắt. Chỉ những người nào đã điều phục được tâm mình mới được yên vui.
( Lời Phật dạy tại câu 35, kinh pháp cú )

Saturday 17 October 2015

Tâm hồn thư thái


Friday 16 October 2015

Đêm


                                 Đêm ! Tĩnh lặng ...
                                 Lật trang giấy ... thật êm 
                                 Khói thuốc !
                                 Vị đời mặn đắng ...
                                  Khung cửa
                                  Nhoà sương đêm ! 
                                  Và chắc giờ này
                                  Em ! 
                                  Chìm trong mơ ... 

( Viết tại ký túc xá đại học kiến trúc Hà Nội, đêm 03/12/1991 ) 

Wednesday 14 October 2015

Chủ nhật buồn


Chủ nhật buồn bạn bè vơi chén rượu
Hồn phiêu du sao em buồn thế
Trời xe lạnh - tình anh bến đợi
Lạc trời đông - lạnh giá đôi mắt em !

Bên cạnh anh, bạn bè cùng men rượu
Những cốc màu và cả một không gian
Nhưng anh thiếu, thiếu nhiều lắm em ơi
Chỉ tình em mới làm anh vơi được
Nỗi cô đơn cùng những chén rượu nồng.

( ký túc xá, đại học kiến trúc Hà Nội, ngày 12/01/1992 )

Sunday 11 October 2015

Hoàng hôn trên phố chợ Phùng Khoang





Hoàng hôn trên phố chợ
Ồn ào đến nao nao
Đôi chân xiêu xiêu bước
Thả hồn theo phiêu du

Hoàng hôn trên phố chợ
Tình anh cuốn theo phiêu du
Yêu em anh mới biết 
Phố chợ tràn ý thơ !
( Phùng Khoang, chiều 24/10/1991 )



Friday 9 October 2015

Thiền Tứ niệm xứ và giấc ngủ

Thiền Tứ niệm xứ và giấc ngủ

( Bài đã đăng ngày 23/11/2013 tại đây: http://yhoccotruyenvn01.blogspot.com/2013/11/thien-tu-niem-xu-va-giac-ngu.html )

      Từng giây, từng phút, tâm ta luôn thu nhận sự tác động của ngoại cảnh tác động tới cơ thể chúng ta, và cả những duyên khởi phát ra từ tâm ta theo ý thức hoặc vô thức. Những tác động từ bên ngoài ( âm Thanh, ánh sáng, hình ảnh, ánh mắt, nụ cười, mùi vị, cảm giác, vi khuẩn, vi rút xâm nhập, ô nhiễm môi trường xâm phạm, tà khí xâm nhập ... )  hay những duyên khởi trong tâm theo vô thức hoặc có ý thức ( vui, mừng, giận, lo, buồn, thương, sợ, hãi, ý tưởng bất chợt, suy nghĩ hoang tưởng, tà nhập... )  tất cả bao vây quanh tâm ta, điều khiển trí óc ta và rồi hằn ghi lên não bộ của chúng ta, cơ thể chúng ta, cho chúng ta những miền ký ức của riêng mỗi người. Nói theo từ nhà Phật thì đó chính là sự tạo nghiệp.
   Mỗi người có nghiệp khác nhau và nghiệp được tạo thành có sự dẫn dắt của duyên khởi vô thức, có sự pha lẫn của ý thức hiện tại, dù theo khía cạnh tốt hay xấu, nhân tính hay bất nhân ... chúng ta vẫn tạo ra và sống trong nghiệp của chính mình. 
   Vậy có lúc nào chúng ta không tạo nghiệp không ? .... Với những hiểu biết hạn hẹp của bản thân mình, tôi mạnh dạn đưa ra những kiến giải hầu xin ý kiến thỉnh giáo của quý vị bạn đọc để chúng ta cùng nhau nhận diện vấn đề, âu là mục đích cuối cùng không ngoài việc tìm kiếm sự lợi lạc cho sức khỏe về thể chất và sự bình an trong tâm hồn của mỗi người. 
   Trước hết là câu hỏi có lúc nào chúng ta không tạo nghiệp không ? Xin thưa rằng có, đó là khi ta ngủ. Với một giấc ngủ sâu, không mộng mị, trong điều kiện phù hợp với cơ thể,  chúng ta có được sự tĩnh lặng, hư không gần như tuyệt đối về tất cả những tác động của ngoại cảnh, nội tâm đến tâm của chúng ta. Hồ Chủ Tịch từng viết: " khi ngủ thì ai cũng lương thiện, tỉnh dậy mới hay kẻ dữ hiền ". Đây là câu thơ thật sâu sắc của Bác về cảm nhận con người cũng như nhìn nhận con người theo triết lý của nhà Phật. Trong mỗi con người luôn có cái nhân tâm và hãy hình dung khi ngủ thì người ta trở về với chính tâm tĩnh lặng, không tạo nghiệp, không bám đuổi theo nghiệp.
   Nhưng khi ta thức ( không ngủ ) thì sao ?    Hãy xem xét theo khía cạnh  khoa học của thiền Tứ niệm xứ là dùng ý trí của mình để dõi theo sự chuyển động không ngừng của cái tâm chính mình và niệm những hình ảnh, ý tưởng, duyên khởi hiện lên trên đường tâm gặp phải. Khi ý trí ta được rèn luyện đạt đến việc niệm song hành với sự dẫn dắt của tâm thì về lý thuyết là tâm sẽ không ghi lại được hình ảnh, sự kiện, ý tưởng và duyên khởi nào nữa ... Và khi đó là thời điểm nghiệp không được tạo ra. Đồng nghĩa với một giấc ngủ bình an.
  ( Ở khía cạnh này chúng ta đang phân tích, cảm nhận tác động của thiền Tứ niệm xứ với tâm. Một khía cạnh khác của thiền là tác động với thân, mời quý vị đọc tiếp ở các phần viết về thiền phật chữa thân bệnh trong thư mục THIỀN PHẬT CHỮA BỆNH của blog: http://yhoccotruyenvn01.blogspot.com/ )


Thursday 8 October 2015

Thực tập thiền quán Tứ Niệm Xứ

( Lan Thanh Đạm tuyết hạ - chụp tại vườn nhà )

Nguồn tại trang: http://www.budsas.org/uni/index.htm       
Thực Tập Thiền Quán Tứ niệm xứ
Hòa thượng Mahasi Sayadaw
Dịch Giả: Tỳ khưu Khánh Hỷ (Trần Minh Tài)
Hiệu Đính: Tỳ khưu Kim Triệu

Lời Mở Đầu
Dĩ nhiên chẳng ai muốn đau khổ và mọi người đều cố gắng tìm kiếm hạnh phúc. Khắp nơi trên thế giới nhân loại đang tìm đủ cách để ngăn ngừa hoặc làm vơi đi nỗi đau khổ và tạo an vui hạnh phúc. Tuy nhiên mục đích chính yếu của họ chỉ nhằm tạo hạnh phúc thể chất bằng phương tiện vật chất. Thật ra, hạnh phúc hay không đều do ở tâm của chúng ta. Vậy mà rất ít người nghĩ đến vấn đề phát triển tinh thần. Những người muốn rèn luyện tinh thần lại càng hiếm hoi hơn nữa.
Để thỏa mãn những nhu cầu vật chất người ta thường để tâm đến những việc tầm thường như tắm giặt sạch sẽ, ăn mặc gọn gàng. Họ quan tâm nhiều đến việc kiếm thức ăn, quần áo, nhà cửa. Tiến bộ khoa học đã giúp họ nhiều trong việc nâng cao đời sống vật chất: chẳng hạn những tiến bộ trong sự chuyên chở và truyền tin, những phát minh y học để ngừa bệnh và trị bệnh. Phải nhìn nhận những cố gắng ấy rất ư là quan trọng, nhưng chúng chỉ giúp bảo vệ và nuôi dưỡng cơ thể mà thôi. Những phát minh và những thành công đó không thể nào tiêu diệt hay giảm thiểu được nỗi khổ của tuổi già, bệnh tật, gia đình xáo trộn và khủng hoảng kinh tế.
Tóm lại, không thể nào thỏa mãn nguyện vọng con người bằng phương tiện vật chất. Chỉ có sự rèn luyện tinh thần mới có thể giúp con người vượt qua những nỗi đau khổ này. Bởi vậy phải tìm một phương cách hữu hiệu để rèn luyện, ổn định và thanh lọc tâm hồn. Phương cách này được tìm thấy trong MahaSatipatthana Sutta, một thời pháp mà đức Phật đã giảng dạy cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm. Đức Phật dạy:
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạo và chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
Giai Đoạn Chuẩn Bị
Nếu bạn thật sự thực tập thiền để đạt được tuệ giác giải thoát ngay trong kiếp hiện tại, bạn phải gạt bỏ mọi tư tưởng và hành vi thế tục trong thời gian hành thiền. Làm như thế là để trau dồi phẩm hạnh thanh cao. Đó là bước căn bản cho việc phát triển thiền. Bạn phải giữ mình trong sạch, đạo đức vì đạo đức là bước chính yếu để phát triển tuệ giác. Bạn phải giữ các giới luật của người phật tử tại gia đối với các vị xuất gia phải giữ gìn giới luật mình đã thọ. Trong khóa thiền tập nhiều ngày thiền sinh phải giữ tám giới (bát quan trai).
1. Không sát sanh

2. Không trộm cắp

3. Không hành dâm

4. Không nói dối

5. Không uống rượu và các chất say

6. Không ăn sái giờ (quá ngọ không ăn)

7. Không múa hát, thổi kèn đờn, trang điểm, thoa vật thơm, dồi phấn, đeo tràng hoa

8. Không nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
Một điều nữa là không được có lời nói hay hành động bất kính đối với những người đã có trình độ giác ngộ cao (các bậc thánh).
      Theo truyền thống các thiền sư xưa thường khuyên bạn đặt lòng tin vào Đức Phật, vì như thế sẽ giúp bạn bớt hốt hoảng khi những hình ảnh bất thiện hoặc sợ hãi xuất hiện trong tâm bạn lúc bạn đang hành thiền. Trong lúc thiền tập bạn cũng cần có một thiền sư hướng dẫn để chỉ cho bạn biết một cách rõ ràng mình đang thiền như thế nào và kết quả đến đâu, cũng như để chỉ dẫn cho bạn khi cần thiết.
      Mục đích chính và thành quả lớn lao của việc hành thiền là giúp bạn loại bỏ tham, sân, si - ba nguồn cội của mọi khổ đau và tội lỗi. Vậy bạn hãy nỗ lực tích cực hành thiền với quyết tâm loại bỏ tham, sân, si; có như thế việc hành thiền mới hoàn toàn thành công. Cách thực tập thiền quán trên căn bản Tứ Niệm Xứ (Satipatthana) này là phương pháp mà Đức Phật và chư thánh tăng đã hành trì để giác ngộ. Bạn hãy vui mừng bởi mình có cơ duyên thực hành loại thiền quí báu này.
Bốn điều bảo vệ hay quán tưởng sau đây cũng rất cần thiết cho bạn khi bạn bắt đầu vào khóa thiền tập. Bạn hãy suy tưởng đến Đức Phật, đến lòng từ ái, đến thân thể bất tịnh và đến sự chết.

1. Trước tiên hãy tỏ lòng tri ân kính ngưỡng Đức Phật bằng cách suy niệm đến những đức tánh thánh thiện của Ngài:
"Con đem hết lòng thành kính làm lễ Đức Thế Tôn, Ngài là đấng toàn giác, tỉnh thức, trí đức vẹn toàn, hiểu thấu đáo mọi sự, thầy của Trời và người, đấng an lành và đem lại sự an lành".

2. Sau đó hãy hướng lòng từ ái đến mọi chúng sanh, hãy hòa mình với tất cả mọi loài không mảy may phân biệt:
"Mong cho tôi thoát khỏi thù hận, bệnh tật và phiền muộn. Mong cho cha mẹ tôi, thầy tôi, bạn bè tôi cùng tất cả mọi người, mọi loài thoát khỏi thù hận, bệnh tật và phiền muộn. Cầu mong tất cả chúng sanh thoát khỏi khổ đau".

3. Hãy suy tưởng đến sự bất tịnh của thân thể, đó là sự luyến ái bất thiện mà phần đông thường mắc phải. Hãy chú ý đến tính cách bất tịnh, dơ dáy của dạ dày, ruột, đờm dãi, mủ, máu, để loại bỏ những tư tưởng luyến ái bám víu vào xác thân.

4. Suy tưởng đến tình trạng mỗi người đều tiến dần đến cái chết. Đấy là suy tưởng có lợi ích về phương diện tâm lý. Đức Phật thường nhấn mạnh rằng : sự sống thật bấp bênh, tạm bợ, nhưng cái chết là điều chắc chắn không thể tránh né. Mục tiêu cuối cùng của đời sống là cái chết. Tiến trình của cuộc sống gồm có : sanh ra, già đi, bệnh tật, khổ đau và cuối cùng là cái chết.
Lúc thực tập bạn có thể ngồi kiết già, hay bán già hoặc ngồi hai chân không chồng lên nhau. Nếu thấy ngồi dưới sàn nhà khó định tâm hay làm bạn khó chịu, bạn có thể ngồi trên ghế. Tóm lại, bạn có thể ngồi cách nào miễn thấy thoải mái là được.

Bài Tập Thứ Nhất
Hãy chú tâm vào bụng. Nên nhớ là chú tâm, chứ không phải chú mắt vào bụng. Chú tâm vào bụng bạn sẽ thấy được chuyển động phồng xẹp của bụng. Nếu không thấy rõ được chuyển động của bụng, bạn có thể đặt hai tay lên bụng để "cảm giác" sự phồng xẹp. Một lúc sau, bạn sẽ nhận rõ sự chuyển động vào ra của hơi thở. Bạn hãy ghi nhận sự phồng lên khi hít vào và xẹp xuống khi thở ra. Mọi chuyển động của bụng đều phải được ghi nhận. Từ bài tập này bạn biết được cách chuyển động của bụng. Bạn không cần để ý đến hình thức của bụng mà chỉ cần theo dõi cảm giác, sức ép do chuyển động của bụng tạo nên mà thôi.
Đối với những người mới tập thiền, đây là phương pháp rất có hiệu quả để phát triển khả năng chú ý, định tâm và tuệ giác. Càng thực tập lâu càng thấy sự chuyển động rõ ràng hơn. Khi tuệ giác phát triển trọn vẹn thì ta sẽ nhận thức được những diễn tiến liên tục của tiến trình tâm-sinh-lý qua mỗi giác quan. Vì là người sơ cơ hành thiền, sự chú ý và khả năng định tâm còn yếu nên bạn sẽ thấy khó giữ tâm trên những chuyển động phồng xẹp liên tục. Do đó bạn có thể nghĩ rằng: "Ta chẳng biết cách giữ tâm trên mọi chuyển động phồng xẹp này". Bạn cần nhớ rõ đây là một tiến trình học hỏi vì vậy hãy yên tâm tiếp tục hành thiền. Chuyển động phồng xẹp của bụng luôn luôn hiện hữu, vì vậy ta không cần tìm kiếm chúng. Thực ra, những thiền sinh mới chỉ cần đơn thuần chú tâm trên hai chuyển động phồng xẹp mà thôi nên sự thực tập cũng không khó khăn lắm. Bạn hãy tiếp tục thực tập bài tập số một này bằng cách chú tâm vào chuyển động phồng xẹp. Đừng bao giờ lập đi lập lại ra lời những chữ phồng xẹp, chỉ cần niệm thầm mà thôi. Niệm thầm sẽ giúp quí bạn dễ chú tâm vào đề mục. Nhưng nếu niệm thầm cản trở sự chú tâm của bạn, thì bạn chỉ ghi nhận sự chuyển động của bụng mà không cần niệm thầm cũng được. Nên thở đều đặn tự nhiên tránh thở dài hay ngắn quá. Nhiều thiền sinh muốn thấy rõ sự phồng xẹp nên hay thở dài hoặc thở nhanh, làm như thế sẽ khiến bạn mệt.

Bài Tập Thứ Hai
Trong khi thực tập quan sát sự phồng xẹp của bụng những tư tưởng khác sẽ phát sinh làm bạn quên mất sự chú tâm. Tư tưởng, ham muốn, ý nghĩ, tưởng tượng, v.v... sẽ xuất hiện giữa những "phồng xẹp". Bạn không nên bỏ qua những phóng tâm hay vọng tưởng này mà phải ghi nhận từng phóng tâm một khi chúng phát sinh.
Khi tâm bạn tưởng tượng điều gì, bạn phải biết mình đang tưởng tượng và ghi nhận: "tưởng-tượng, tưởng-tượng, tưởng-tượng". Khi bạn chỉ đơn thuần nghĩ đến điều gì phải ghi nhận: "nghĩ, nghĩ, nghĩ". Khi bạn suy gẫm, ghi nhận: "suy-gẫm, suy-gẫm, suy-gẫm". Khi bạn có dự định làm điều gì hãy ghi nhận: "dự-định, dự-định, dự-định". Khi tâm bạn đi lang bạc không để ý đến phồng xẹp hãy ghi nhận: "phóng-tâm, phóng-tâm, phóng-tâm". Khi tưởng tượng hay đang đi đến một nơi nào phải ghi nhận: "đi, đi, đi". Khi đến thì ghi nhận: "đến, đến, đến". Khi nghĩ đến gặp người nào đó thì ghi nhận: "gặp, gặp, gặp". Khi nghĩ đến nói chuyện với ai thì ghi nhận: "nói, nói, nói". Khi bàn cãi thì ghi nhận: "bàn-cãi, bàn-cãi, bàn- cãi". Khi thấy hình ảnh màu sắc ghi nhận: "thấy, thấy, thấy". Mỗi một khi tâm thấy gì, nghĩ gì đều phải ghi nhận cho đến khi chúng biến mất. Sau khi chúng biến mất ta lại chú tâm vào sự phồng xẹp. Phải chú tâm hành trì đừng chểnh mãng. Khi định nuốt nước bọt phải ghi nhận: "định, định, định". Khi nuốt phải ghi nhận: "nuốt, nuốt, nuốt". Muốn khạc nhổ, ghi nhận: "muốn, muốn, muốn" rồi lại trở về sự phồng xẹp. Nếu bạn muốn khum cổ ghi nhận: "muốn, muốn, muốn"; trong khi khum cổ ghi nhận: "khum, khum, khum". Khi bạn định ngửng cổ lên, ghi nhận: "định, định, định". Khi ngửng cổ lên ghi nhận: "ngửng, ngửng, ngửng". Tác động ngửng cổ hay khum cổ phải làm từ từ.
Sau khi đã chú tâm ghi nhận mỗi một động tác đó, ta lại trở về với sự phồng xẹp.

Bài Tập Thứ Ba
Vì phải liên tục thiền trong một khoảng thời gian khá dài với một tư thế ngồi hay nằm nên bạn sẽ cảm thấy mệt và thấy mỏi tay chân. Trong trường hợp này, bạn hãy chú tâm vào nơi mỏi mệt và ghi nhận: "mỏi-mệt, mỏi-mệt, mỏi-mệt". Hãy ghi nhận một cách tự nhiên, không mau quá cũng không chậm quá. Cảm giác mệt mỏi sẽ dần dần giảm đi và cuối cùng hết hẳn. Nếu sự mệt mỏi kéo dài đến độ không chịu đựng nổi, lúc bấy giờ bạn hãy thay đổi tư thế. Tuy nhiên đừng quên ghi nhận "muốn, muốn, muốn" trước khi thay đổi tư thế. Mỗi một chi tiết chuyển động nhỏ đều phải được ghi nhận một cách trung thực và thứ tự.
Nếu dự định đưa tay hay chân lên hãy ghi nhận: "dự-định, dự-định, dự-định" trong khi đưa tay hay chân lên thì ghi nhận: "đưa-lên, đưa-lên, đưa-lên". Duỗi tay, chân ra; ghi nhận: "duỗi, duỗi, duỗi". Khi đặt tay xuống, ghi nhận: "đặt, đặt, đặt". Khi tay hay chân tiếp xúc nhau ghi nhận: "tiếp-xúc, tiếp-xúc, tiếp-xúc". Hãy thực hiện mọi động tác thật chậm để dễ ghi nhận. Ngay khi bạn đã ở trong tư thế mới, bạn phải tiếp tục chú tâm vào sự phồng xẹp của bụng ngay. Nếu thấy tư thế mới không thoải mái, muốn đổi tư thế thì cũng phải ghi nhớ như trên.
Nếu thấy ngứa một chỗ nào đó, chú tâm vào chỗ ngứa và ghi nhận: "ngứa, ngứa, ngứa". Sự ghi nhận phải tự nhiên đừng quá mau cũng đừng quá chậm. Khi cảm giác ngứa biến mất lại trở về với sự phồng xẹp. Nếu ngứa quá không chịu được muốn gãi, ghi nhận: "muốn, muốn, muốn", rồi lại từ từ đưa tay lên, ghi nhận: "đưa-lên, đưa-lên, đưa-lên". Khi tay đụng chỗ ngứa, ghi nhận: "đụng, đụng, đụng". Khi gãi nhè nhẹ vào chỗ ngứa, ghi nhận: "gãi, gãi, gãi". Khi đã ngứa, không muốn gãi nữa và muốn đưa tay về, hãy ghi nhận: "đưa-về, đưa- về, đưa-về". Khi tay trở về chỗ cũ và tiếp xúc với tay hay chân, ghi nhận: "đụng, đụng, đụng". Rồi tiếp tục quan sát sự phồng xẹp của bụng.
Nếu thấy đau hay khó chịu, hãy chú tâm đến chỗ đau hay khó chịu đó. Hãy ghi nhận một cách rõ ràng và chính xác mọi cảm giác phát sinh, chẳng hạn, đau nhức, đè nặng, mệt, tê, cứng, v.v... Cần nhớ là những sự ghi nhận này phải tự nhiên; đừng vội vã quá cũng đừng trễ quá. Cơn đau, nhức có thể chấm dứt hay gia tăng. Khi cơn đau gia tăng cũng đừng hốt hoảng hay lo sợ gì cả mà chỉ cần tiếp tục thiền và một lát sau cơn đau sẽ lắng đi. Nếu cơn đau nhức vẫn kéo dài không thể chịu đựng nổi thì hãy bỏ qua sự đau nhức và chú tâm vào sự phồng xẹp.
Khi thiền của bạn tiến triển, bạn sẽ có những cảm giác đau đớn khó chịu. Bạn có cảm giác khó thở, nghèn nghẹn, có khi như bị kim chích, thấy nhột nhạt như có côn trùng bò trên thân mình. Bạn cũng có thể thấy ngứa ngáy, đau đớn như bị con gì cắn, bị rét run. Khi bạn ngưng thiền thì những cảm giác trên biến mất ngay. Khi bạn tiếp tục thiền trở lại và cứ mỗi khi bắt đầu định tâm thì những cảm giác khó chịu trên lại xuất hiện. Những cảm giác này không có gì đáng lo ngại. Đây không phải là dấu hiệu của bệnh hoạn mà chỉ là những cảm giác bình thường vẫn hiện diện trong cơ thể ta nhưng chúng bị che lấp vì tâm ta đang mãi bận rộn với những đối tượng trước mắt. Khi thiền tiến triển, tâm ta trở nên bén nhọn, tinh tế nên dễ dàng nhận thấy những cảm giác này, khi mức độ thiền tiến triển hơn bạn sẽ vượt qua tất cả những chướng ngại này. Nếu tiếp tục và kiên trì thiền bạn sẽ không còn gặp những cảm giác khó chịu này nữa. Nếu bạn thiếu can đảm, thiếu quyết tâm và gián đoạn một thời gian thì bạn lại sẽ chạm trán với chúng lần nữa mỗi khi thiền của bạn tiến triển. Nhưng nếu gặp những cảm giác khó chịu này mà bạn vẫn quyết tâm và kiên trì tiếp tục hành thiền thì bạn sẽ chinh phục được chúng và bạn sẽ không bao giờ gặp những cảm giác khó chịu này nữa trong lúc hành thiền.
Nếu bạn dự định xoay mình hãy ghi nhận: "dự-định, dự-định, dự-định". Khi đang xoay ghi nhận: "xoay, xoay, xoay". Nhiều khi trong lúc đang hành thiền, bạn thấy thân thể mình lắc lư từ trước ra sau thì cũng đừng sợ hãi, đừng thích thú hay mong muốn tiếp tục lắc lư. Sự lắc lư sẽ chấm dứt nếu bạn chú tâm vào nó và tiếp tục ghi nhận: "lắc-lư, lắc-lư, lắc-lư" cho đến khi hết lắc lư. Nếu đã ghi nhận nhiều lần mà thân hình vẫn còn lắc lư bạn hãy dựa vào tường hay nằm xuống một lát và vẫn tiếp tục hành thiền. Khi thân bị lay chuyển hay run rẩy cũng chú tâm ghi nhận như trên. Khi thiền tiến triển đôi khi bạn cũng sẽ cảm thấy rờn rợn run lên hoặc ớn lạnh ở xương sống hay toàn thân. Đó là trạng thái phỉ lạc, một thành quả đương nhiên khi thiền được tiến triển tốt đẹp. Khi tâm an trụ trong thiền thì bạn rất dễ bị giật mình bởi những tiếng động nhỏ. Lý do là tâm của bạn bây giờ rất bén nhạy trước mọi đối tượng của giác quan.
Trong lúc thiền nếu bạn cảm thấy khát nước, hãy ghi nhận cảm giác: "khát, khát, khát". Khi muốn đứng dậy, ghi nhận: "muốn, muốn, muốn" và chú tâm ghi nhận mỗi một tác động chuẩn bị đứng dậy, rồi chú tâm vào tác động đứng và ghi nhận: "đứng, đứng, đứng". Sau khi đứng dậy mắt bạn nhìn về phía có nước, ghi nhận: "nhìn, nhìn, nhìn". Khi muốn đi, ghi nhận: "muốn, muốn, muốn". Bắt đầu bước từng bước, ghi nhận: "đi, đi, đi" hay "trái, phải". Bạn phải tỉnh thức trong mọi bước đi từ lúc bắt đầu đi cho tới khi đứng lại. Khi đi tản bộ hoặc thiền hành bạn cũng phải theo những nguyên tắc ghi nhận như trên. Hãy cố gắng ghi nhận những bước chân qua hai tác động: "dở, đạp", "dở, đạp". Khi bạn đã thuần thục với cách này, hãy chú tâm ghi nhận ba tác động: "dở, bước, đạp", "dở, bước, đạp".
Khi bạn thấy hoặc đi đến chỗ để nước phải ghi nhận: "thấy, thấy, thấy" hay "nhìn, nhìn, nhìn".
Khi dừng chân, ghi nhận: "dừng, dừng, dừng".
Khi đưa tay ra, ghi nhận: "đưa, đưa, đưa".
Khi tay đụng vào chén, ghi nhận: "đụng, đụng, đụng".
Khi cầm chén, ghi nhận: "cầm, cầm, cầm".
Khi thọc tay vào lu, ghi nhận: "thọc, thọc, thọc".
Khi đưa chén lên môi, ghi nhận: "đưa, đưa, đưa".
Khi chén đụng vào môi, ghi nhận: "đụng, đụng, đụng".
Khi cảm thấy mát, ghi nhận: "mát, mát, mát".
Khi nuốt, ghi nhận: "nuốt, nuốt, nuốt".
Khi để chén xuống ghi nhận: "để-xuống, để-xuống, để-xuống".
Khi thu tay về, ghi nhận: "thu-về, thu-về, thu-về".
Khi thòng tay xuống, ghi nhận: "thòng, thòng, thòng".
Khi tay đụng vào đùi, ghi nhận: "đụng, đụng, đụng".
Khi muốn quay lui, ghi nhận: "muốn, muốn, muốn".
Khi quay lui, ghi nhận: "quay, quay, quay".
Khi đi, ghi nhận: "đi, đi, đi".
Khi đến nơi, muốn dừng lại, ghi nhận: "muốn, muốn, muốn".
Khi dừng lại ghi nhận: "dừng, dừng, dừng".
Nếu đứng một thời gian lâu, thì hãy chú tâm vào sự phồng xẹp của bụng. Nhưng khi bạn muốn ngồi hãy ghi nhận: "muốn, muốn, muốn". Khi đi đến chỗ ngồi, phải ghi nhận: "đi, đi, đi". Đến chỗ ngồi, ghi nhận: "đến, đến, đến". Xoay người trước khi ngồi, ghi nhớ: "xoay, xoay, xoay". Ngồi xuống ghi nhận: "ngồi, ngồi, ngồi". Phải ngồi xuống chầm chậm và ghi nhận mọi chuyển động của sự ngồi. Bạn phải chú ý đến từng tác động một của tay chân khi ngồi. Ngồi xong lại tiếp tục theo dõi sự phồng xẹp của bụng.
Khi bạn muốn nằm, ghi nhận: "muốn, muốn, muốn"; rồi lại ghi mọi tác động của sự nằm: nghiêng người, chống tay, đặt đầu, duỗi chân, nằm... tất cả những động tác này phải làm chầm chậm. Lúc nằm xuống rồi lại tiếp tục theo dõi sự phồng xẹp. Trong khi nằm nếu cảm thấy đau nhức, mệt mỏi, ngứa ngáy... Đều phải ghi nhận. Ghi nhận mọi cảm giác, suy nghĩ, ý kiến, cân nhắc, suy xét và mọi tác động của tay chân và thân thể. Nếu thấy không còn cảm giác gì đặc biệt đáng ghi nhận thì hãy tiếp tục ghi nhận sự phồng xẹp. Khi buồn ngủ, ghi nhận: buồn ngủ. Nếu bạn có đủ năng lực tập trung trong thiền, bạn có thể vượt qua sự buồn ngủ và cảm thấy tươi tỉnh, lúc bấy giờ bạn hãy tiếp tục theo dõi sự phồng xẹp, nếu bạn không thắng được cơn buồn ngủ hãy tiếp tục niệm phồng xẹp cho đến khi ngủ. Giấc ngủ là sự liên tục của luồng hộ kiếp hay tiềm thức, giống như trường hợp của tâm lúc tái sanh hay của tâm lúc chết, cái tâm lúc này rất yếu ớt không thể nhận thức được gì cả... Khi bạn thức, tâm này tiếp tục xuất hiện giữa những lúc bạn nhìn, nghe, nếm, ngửi, xúc chạm và suy nghĩ. Nhưng tâm này xuất hiện rất yếu và không tồn tại lâu nên khó nhận thấy. Tâm này sẽ duy trì liên tục khi bạn ngủ. Khi bạn thức dậy, thì mọi tư tưởng và mọi đối tượng sẽ được nhận thức rõ ràng liền.
Vào lúc thức giấc, bạn phải hành thiền ngay. Là thiền sinh mới vì vậy bạn khó có thể tỉnh thức vào những giây phút đầu tiên lúc mới thức dậy. Nhưng bạn phải giác tỉnh ngay lúc bạn nhớ lại rằng mình đang hành thiền. Chẳng hạn lúc thức dậy,bạn nghĩ tưởng đến điều gì thì phải tỉnh thức mà ghi nhận ngay: "nghĩ-tưởng, nghĩ-tưởng, nghĩ-tưởng". Rồi tiếp tục với phồng xẹp. Khi thức dậy bạn phải chú tâm đến những chi tiết của hoạt động cơ thể. Mọi tác động của tay chân và thân thể phải được ghi nhận một cách tỉnh thức. Lúc thức dậy bạn có nghĩ rằng bây giờ là mấy giờ không? Nếu nghĩ đến giờ thì phải ghi nhận: "nghĩ, nghĩ, nghĩ". Bạn chuẩn bị rời khỏi giường ngủ hãy ghi nhận chuẩn bị. Khi từ từ ngồi dậy phải ghi nhận: ngồi dậy. Lúc đang ở tư thế ngồi, ghi nhận: "ngồi, ngồi, ngồi". Nếu còn ngồi ở giường một lúc lâu mới đứng dậy đi thì phải chú tâm đến phồng xẹp, tiếp theo đó. Lúc rửa mặt hay tắm, cũng phải để tâm ghi nhận mọi chi tiết; chẳng hạn, nhìn, ngắm, duỗi, cầm, nắm, ấm, lạnh, chà xát, v.v... Lúc trang điểm, lúc làm giường, lúc đóng cửa, cầm nắm vật gì đều phải chú tâm ghi nhận theo thứ tự.
Bạn cũng chú ý từng tác động một trong lúc ăn:
Khi nhìn thức ăn ghi nhận: "nhìn, nhìn, nhìn".
Khi múc thức ăn ghi nhận: "múc, múc, múc".
Khi đưa thức ăn lên miệng ghi nhận: "đưa, đưa,đưa".
Khi thức ăn đụng môi, ghi nhận: "đụng, đụng, đụng".
Khi thức ăn vào đến miệng, ghi nhận: "vào, vào, vào".
Khi miệng ngậm lại, ghi nhận: "ngậm, ngậm, ngậm".
Khi bỏ tay xuống, ghi nhận: "bỏ xuống, bỏ xuống, bỏ xuống".
Khi tay đụng dĩa, ghi nhận: "đụng, đụng, đụng".
Khi nhai ghi nhận: "nhai, nhai, nhai".
Khi biết mùi vị ghi nhận: "biết, biết, biết".
Khi nuốt, ghi nhận: "nuốt, nuốt, nuốt".
Khi thực phẩm vào trong cuống họng chạm vào cuống họng, ghi nhận: "đụng, đụng, đụng".
Hãy chú tâm theo dõi mỗi khi bạn múc một muỗng cơm cho đến khi xong bữa ăn. Lúc mới thực hành sẽ có rất nhiều thiếu sót. Đừng ngại điều đó, sau một thời gian kiên trì tập luyện, sự thiếu sót ghi nhận sẽ giảm đi. Khi mức thiền tập của bạn tiến triển đến mức độ cao hơn bạn sẽ còn ghi nhận được thêm nhiều chi tiết hơn những điều đã đề cập ở đây.

Bài Tập Thiền Hành Căn Bản
Giữa hai lần thiền tọa là khoảng thời gian từ bốn mươi đến chín mươi phút để thiền hành. Thiền hành xen kẻ giữa thiền tọa để quân bình năng lực và những yếu tố của sự định tâm, đồng thời để tránh buồn ngủ. Bạn có thể thiền hành trong phòng hay ngoài sân. Lúc thiền hành bạn nên đi chậm hơn lúc bình thường và đi một cách tự nhiên. Trong lúc thiền hành bạn phải chú tâm vào sự chuyển động của chân. Bạn phải chú tâm khi bàn chân phải (mặt) bắt đầu nhất lên khỏi mặt đất, ghi nhận: dở; Khi đưa chân tới ghi nhận: bước; khi chân đặt xuống đất, ghi nhận: đạp. Chân trái cũng làm như thế...
Cũng như lúc ngồi thiền; khi đi, mọi phóng tâm hay cảm giác phải được ghi nhận. Chẳng hạn chợt nhìn một vật gì đó trong khi bạn đang đi hãy ghi nhận tức thì: "nhìn, nhìn, nhìn", rồi trở về với những chuyển động của chân. Mặc dầu trong khi đi những vật bạn nhìn thấy không liên quan gì đến thiền hành nhưng nếu bạn vô tình để tâm đến nó thì phải ghi nhận ngay: "nhìn, nhìn, nhìn".
Khi đi đến mức cuối của đoạn đường kinh hành dĩ nhiên bạn phải trở bước để đi ngược trở lại; lúc còn vài bước đến bước cuối cùng đoạn đường, bạn phải ghi nhận: "muốn quay, muốn quay, muốn quay". Ý định muốn quay có thể khó ghi nhận lúc ban đầu nhưng khi thiền của bạn tiến triển, bạn sẽ thấy dễ dàng. Sau khi ghi nhận ý định bạn phải ghi nhận tất cả chi tiết của tư tưởng và tác động liên quan đến việc quay.... ở bước cuối của con đường, bạn bắt đầu quay mình, phải ghi nhận: "quay, quay, quay", khi chân chuyển động phải kịp thời ghi nhận dở... bước... đạp, v.v... Trong lúc quay thường vì sự cám dỗ của bên ngoài nên bạn có ý định muốn nhìn xem chung quanh có cái gì lạ không, phải ghi nhận ngay: "dự-định, dự-định, dự-định" hay "muốn, muốn, muốn", rồi lại chú tâm đến bước chân.
Thông thường đối với những thiền sinh mới, chú tâm đến ba giai đoạn dở, bước và đạp rất có hiệu quả. Tuy nhiên, tùy theo khả năng của từng người, thiền sư có thể khuyên họ nên chú ý ít hay nhiều giai đoạn hơn. Nhiều lúc thấy sự đi chậm bất tiện, nhất là lúc đi ra ngoài khu vực hành thiền bạn có thể đi nhanh hơn và ghi nhận: trái, phải mỗi khi chân trái hay chân phải đặt xuống đất. Ghi nhận nhiều hay ít giai đoạn không quan trọng, điều cốt yếu là bạn có chú tâm tỉnh thức trong từng bước đi hay không?

Thiền Mức Cao Hơn
Sau một thời gian hành thiền, định lực của bạn phát triển và bạn đã dễ dàng theo dõi sự phồng xẹp của bụng, lúc bấy giờ bạn sẽ nhận thấy có một thời gian, hay khoảng hở giữa hai giai đoạn phồng xẹp. Nếu bạn đang ngồi thiền bạn hãy ghi nhận: "phồng, xẹp, ngồi". Khi ghi nhận ngồi, bạn hãy chú tâm vào phần trên của thân. Khi bạn đang nằm thiền hãy ghi nhận: "phồng xẹp, nằm".
Nếu bạn thấy có khoảng thời gian hở giữa phồng, xẹp, và xẹp, phồng, bạn hãy ghi nhận: "phồng, ngồi, xẹp, ngồi". Nếu bạn đang nằm hãy ghi nhận: "phồng, nằm, xẹp, nằm". Nếu thực hành một lát mà thấy sự ghi nhận ba hay bốn giai đoạn như trên không dễ dàng đối với bạn, hãy trở về với hai giai đoạn phồng, xẹp.
Trong khi chú tâm theo dõi chuyển động của cơ thể, bạn không cần phải chú ý đến đối tượng thấy và nghe. Khi bạn có khả năng chú tâm vào chuyển động phồng xẹp thì bạn cũng có khả năng chú tâm vào đối tượng nghe và thấy. Tuy nhiên, khi chú ý nhìn một vật gì đó thì bạn phải đồng thời ghi nhận ba lần: "thấy, thấy, thấy" sau đó trở về với sự chuyển động của bụng. Giả sử có một người nào đó đi vào trong tầm nhìn của bạn, bạn để ý thấy thì phải ghi nhận: thấy hai hay ba lần, rồi trở về với sự phồng xẹp. Bạn có nghe tiếng nói không? Bạn có lắng nghe không? Nếu bạn nghe hay lắng nghe thì phải ghi nhận: "nghe, nghe, nghe" hay "lắng-nghe, lắng-nghe, lắng-nghe"; sau đó trở về với sự phồng xẹp. Giả sử bạn nghe những tiếng động lớn như tiếng chó sủa, nói chuyện to, tiếng hát bạn phải tức khắc ghi nhận hai hay ba lần: nghe, rồi trở về với bài tập phồng, xẹp. Nếu bạn quên không ghi nhận khi đang phóng tâm vào sự nghe, điều này có thể khiến bạn suy tưởng hay chạy theo chúng mà quên chú ý vào sự phồng xẹp. Lúc bấy giờ sự phồng xẹp sẽ trở nên yếu đi hay không phân biệt được rõ ràng. Gặp những trường hợp bạn bị lôi cuốn bởi những phiền não chập chồng như thế, bạn hãy ghi nhận hai hay ba lần: "suy-tưởng, suy-tưởng, suy-tưởng" rồi trở về với sự phồng xẹp. Nếu quên ghi nhận những chuyển động của cơ thể, tay chân, v.v.. thì phải ghi nhận: "quên, quên, quên" rồi trở về với sự chuyển động của bụng. Bạn có thể cảm thấy lúc bấy giờ hơi thở sẽ chậm lại hay chuyển động phồng xẹp không rõ ràng. Nếu điều đó xảy ra và lúc ấy bạn đang ngồi thì hãy chú tâm ghi nhận: ngồi, đụng. Nếu lúc bấy giờ đang nằm hãy ghi nhận nằm, đụng. Khi ghi nhận đụng, không phải bạn chỉ chú tâm vào một điểm của cơ thể đang tiếp xúc, mà phải chú tâm vào nhiều điểm kế tiếp nhau. Có nhiều chỗ đụng; ít nhất sáu hay bảy chỗ bạn phải chú tâm đến. Một trong những điểm đó là: đùi, đầu gối, hai tay chạm nhau, hai chân đụng nhau, hai ngón cái đụng nhau, chớp mắt, lưỡi đụng miệng, môi chạm nhau.

Bài Tập Thứ Bốn
Cho đến bây giờ bạn đã hành thiền được nhiều giờ rồi. Bạn có thể bắt đầu cảm thấy làm biếng khi nghĩ rằng mình chưa tiến bộ được bao nhiêu. Đừng bỏ dở, hãy tiếp tục ghi nhận: "làm biếng, làm biếng, làm biếng".
Trước khi thiền của bạn đủ sức mạnh để phát triển khả năng chú ý, định tâm và tuệ giác, bạn có thể nghi ngờ không biết cách thức hành thiền như thế này có đúng, có hữu ích không. Gặp trường hợp này hãy ghi nhận: "nghi-ngờ, nghi-ngờ, nghi-ngờ". Bạn có ao ước hay mong muốn đạt được thành quả tốt trong thiền không? Nếu bạn có tư tưởng như thế thì hãy ghi nhận: "ao ước, ao ước, ao ước" hay "mong muốn, mong muốn, mong muốn". Bạn có suy nghĩ xét lại cách thức thực tập để bạn đạt được mức độ này không? Nếu có, bạn hãy ghi nhận: "xét lại, xét lại, xét lại". Có trường hợp nào bạn xem xét đối tượng thiền và phân vân không biết đó là tâm hay vật chất không? Nếu có, bạn hãy ghi nhận: "xem xét, xem xét, xem xét". Có khi nào bạn tiếc nuối vì mình không đạt được sự tiến bộ nào không? Nếu có, bạn hãy chú tâm ghi nhận cảm giác: "tiếc nuối, tiếc nuối, tiếc nuối".
Ngược lại, bạn có cảm thấy sung sướng khi mức độ thiền của bạn tiến triển hay không? Nếu có, bạn hãy ghi nhận: "sung sướng, sung sướng, sung sướng". Đấy là cách thức bạn ghi nhận mỗi một trạng thái của tâm hồn, nếu không có những tư tưởng hay quan niệm được ghi nhận thì bạn hãy trở về với sự phồng xẹp.
Trong một khóa hành thiền tích cực thì thời gian hành thiền bắt đầu từ lúc thức dậy cho đến khi đi ngủ. Bạn cần nhớ là phải luôn luôn thực hành hoặc bài tập căn bản, hoặc là thực hành sự chú tâm liên tiếp suốt ngày cho đến đêm, nếu bạn chưa buồn ngủ. Chẳng có nghỉ ngơi phút nào. Khi thiền của bạn đạt được mức tiến bộ cao thì bạn sẽ không còn cảm thấy buồn ngủ mặc dù bạn phải hành thiền rất nhiều giờ; lúc bấy giờ bạn có thể tiếp tục thiền cả ngày lẫn đêm.
Tóm lại trong thời gian hành thiền, bạn phải để tâm ghi nhận tất cả những trạng thái của tâm, dù đó là trạng thái tốt hay xấu; bạn cũng phải chú tâm đến những sự chuyển động của cơ thể, dù đó là những chuyển động lớn hay nhỏ; bạn phải chú tâm đến mỗi một cảm giác, dầu cảm giác ấy dễ chịu hay khó chịu. Trong suốt thời gian hành thiền nếu không có những gì đặc biệt xảy ra khiến bạn phải ghi nhận, thì hãy chú tâm vào sự phồng xẹp của bụng. Nếu bạn đi làm một việc gì đó, chẳng hạn, đi uống nước, bạn phải chú ý đến những tác động cần thiết của sự đi, bạn phải chú tâm tỉnh thức ghi nhận từng bước đi một, chẳng hạn: đi, đi, hay trái, phải. Lúc đến nơi bạn hãy niệm: đứng, cầm, nắm, uống v.v... Nhưng khi bạn thực tập thiền hành bạn phải chú ý đến ba giai đoạn của bước đi: dở, bước, đạp.

Thiền sinh phải nỗ lực tập luyện suốt ngày đêm mới có thể sớm khai triển tâm định đến tuệ giác thứ tư (tuệ biết được sự sinh diệt) và từ đó đạt đến những tuệ giác cao hơn.


Vũ vô kiềm toả năng lưu khách


  " Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách
   Sắc bất ba đào dị nịch nhân "
là đôi câu đối của một người làm hay của một người ra và một người đối lại? Người (hoặc những người) đó là ai?
Hai câu đối trên đã được Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch ghi lại trong giai thoại sau đây:
  ''Nguyễn Giản Thanh, người làng Ông-mặc (làng Me) huyện Đông-ngàn (nay là Từ-sơn) Bắc-ninh. Sống vào khoảng đầu thế kỷ XVI, sinh năm 1482, mất năm nào không rõ. Ông lúc nhỏ, học rất thông minh, mới mười sáu tuổi đã thông hiểu rất nhiều sách vở, sau đỗ trạng nguyên nên tục gọi là Trạng Me.
 Một hôm đang học ở trường, thầy học là thượng thư Đàm Thận Huy vừa giảng bài xong thì trời sập mưa, học trò đều phải ngồi lại. Ông Huy nhân thấy vậy, bèn ra một câu đối để học trò cùng đối cho vui:
                   Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách
nghĩa là: Mưa không có then khóa mà giữ được khách.
Nguyễn Giản Thanh đối ngay rằng:
                        Sắc bất ba đào dị nịch nhân
nghĩa là: Sắc đẹp chẳng phải sóng gió mà làm đắm đuối người ta
 Ông Huy xem xong khen rằng: ''Câu này đối hay lắm, giọng văn này có thể đỗ trạng được, nhưng sau tất mê đắm vào vòng sắc dục làm hại lây đến sự nghiệp''.
            Tiếp đó, một người học trò tên là Nguyễn Chiểu Huấn lại đối:
                        Nguyệt hữu loan cung bất xạ nhân
nghĩa là: Mặt trăng giống cái cung mà chẳng bắn ai.
            Ông Huy phê: ''Câu này kém sắc sảo, không hay bằng câu kia, nhưng tỏ ra khí chất hiền hòa, sau này sẽ làm nên, cuộc sống sẽ chu toàn”.
            Sau đó, lại có một người học trò khác đối rằng:
                        Phẩn bất uy quyền dị sử nhân
nghĩa là: Phân cứt chẳng uy quyền gì mà dễ sai khiến người.
            Ông Huy phê: ''Sau này sang nhưng là hạng bỉ lậu!
            Quả nhiên, mấy năm sau, Nguyễn Giản Thanh đỗ thủ khoa, rồi đỗ trạng nguyên đời vua Lê Uy Mục (1508), làm Lễ bộ thượng thư, nhưng vì say đắm một cô gái đẹp ở Kinh mà đến ô danh bại giá. Còn Chiểu Huấn chỉ đỗ bảng nhãn nhưng làm quan và sống yên ổn không xảy ra chuyện gì cả. Riêng người học trò kia sau cũng vào bậc hào phú trong vùng, nhưng ai cũng phê là hạng thô lỗ, bỉ ổi".
(Giai thoại văn học Việt Nam,Hà Nội, 1988, trang 56-58)
            Nhưng Việt-nam tự-điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, q.hạ, phần II, tr.301, thì lại chép như sau:
            ''Thuở nhỏ, Nguyễn Trãi đi học tại nhà một ông đồ. Một bữa tan học mà trời mưa dai, tất cả học trò đều không về được. Thấy thế, thầy bèn ra câu đối để các trò có việc làm mà đợi mưa tạnh.
            Vũ vô thiết-tỏa năng lưu khách
            Trong tất cả các câu đối lại của học trò, chỉ có câu  của Nguyễn Trãi hay nhất:
                        Sắc bất ba đào dị nịch nhân
nên được thầy khen nhưng bảo sau này Nguyễn Trãi sẽ bị hại vì nhan sắc đàn bà. Và chúng ta đã biết vụ án " Lệ Chi viên " xảy ra khiến Nguyễn Trãi và toàn bộ gia đình, họ tộc bị tru di, đây là điều đau buồn trong lịch sử Việt Nam.

Wednesday 7 October 2015

Dạ hội


Giữa đông người em nhỏ nhắn quá
Chiếc khăn chùm đỏ nhỏ ...........
Anh mơ màng chạy trốn với thời gian
Vẫn biết em đó mà lòng anh run sợ
Ngọn lửa nào thiêu đốt cõi lòng anh...
Điệu nhạc cuồng say đêm hội
Hay trái tim anh rộn rã mối tình đầu 

( Ký túc xá trường ĐH Kiến trúc Hà Nội, ngày 08/01/1992 )

Saturday 3 October 2015

Trải nghiệm Thiền Quán với giấc ngủ và sức khoẻ

Trải nghiệm Thiền Quán với giấc ngủ và sức khỏe

Trích trong Thực Tập Thiền Quán" :
Dĩ nhiên chẳng ai muốn đau khổ và mọi người đều cố gắng tìm kiếm hạnh phúc. Khắp nơi trên thế giới nhân loại đang tìm đủ cách để ngăn ngừa hoặc làm vơi đi nỗi đau khổ và tạo an vui hạnh phúc. Tuy nhiên mục đích chính yếu của họ chỉ nhằm tạo hạnh phúc thể chất bằng phương tiện vật chất. Thật ra, hạnh phúc hay không đều do ở tâm của chúng ta. Vậy mà rất ít người nghĩ đến vấn đề phát triển tinh thần. Những người muốn rèn luyện tinh thần lại càng hiếm hoi hơn nữa.
Để thỏa mãn những nhu cầu vật chất người ta thường để tâm đến những việc tầm thường như tắm giặt sạch sẽ, ăn mặc gọn gàng. Họ quan tâm nhiều đến việc kiếm thức ăn, quần áo, nhà cửa. Tiến bộ khoa học đã giúp họ nhiều trong việc nâng cao đời sống vật chất: chẳng hạn những tiến bộ trong sự chuyên chở và truyền tin, những phát minh y học để ngừa bệnh và trị bệnh. Phải nhìn nhận những cố gắng ấy rất ư là quan trọng, nhưng chúng chỉ giúp bảo vệ và nuôi dưỡng cơ thể mà thôi. Những phát minh và những thành công đó không thể nào tiêu diệt hay giảm thiểu được nỗi khổ của tuổi già, bệnh tật, gia đình xáo trộn và khủng hoảng kinh tế.
Tóm lại, không thể nào thỏa mãn nguyện vọng con người bằng phương tiện vật chất. Chỉ có sự rèn luyện tinh thần mới có thể giúp con người vượt qua những nỗi đau khổ này. Bởi vậy phải tìm một phương cách hữu hiệu để rèn luyện, ổn định và thanh lọc tâm hồn. Phương cách này được tìm thấy trong MahaSatipatthana Sutta, một thời pháp mà đức Phật đã giảng dạy cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm. Đức Phật dạy:

"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạo và chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ"."
  Trên là đoạn trích trong bài viết "Thực tập Thiền Quán" của Hòa thượng Mahasi Sayadaw. Tôi tự mình thực hành và chiêm nghiệm theo những chỉ dẫn trong bài viết này một thời gian dài theo cách của một người bình thường (chỉ thực hiện được 5 quan trai ) nhưng đã nhận cảm được rõ việc khống chế tâm để tập trung suy nghĩ, để cân bằng tránh căng thẳng và đặc biệt việc thực hiện thiền Tứ Niệm Xứ giúp xóa hẳn chứng mất ngủ dai dẳng từ thời sinh viên đến gần đây. Không phải là cứ tập thiền thì tự chứng mất ngủ sẽ hết mà tôi cảm nhận được mình đã có thể khống chế được nó bằng thiền quán. Khi thấy khó ngủ, tâm bất an tôi thực hiện thiền Tứ Niệm Xứ, từng bước, từng bước trong kiểm soát hơi thở và thầm đọc các hình ảnh nơi tâm ta tiến tới ( các trạng thái hiện ra hoặc ập tới ) sẽ triệt bỏ dần dần hết những rối loạn, căng thẳng của tâm và giấc ngủ đến nhẹ nhàng.
  Thực ra, thiền theo cách của mình như vậy là chưa đi đến đâu trên con đường của nhà Phật, nhưng về mặt dưỡng sinh thân tâm để giữ gìn sức khỏe thì đối với con người bình thường như tôi đó cũng là điều vô cùng may mắn nhận được nơi Phật Pháp.
  Để cảm nhận và thực hiện được điều ích lợi trên cũng phải mất rất nhiều thời gian luyện tập theo Thực tập Thiền Quán chứ không đơn giản chỉ là chúng ta quan sát hơi thở, hình ảnh, ý niệm, suy nghĩ rồi thầm đọc trong đầu là sẽ đạt được. Thời gian đầu, tâm của chúng ta sẽ chạy lòng vòng rất khó kiểm soát ( hãy hình dung ta đuổi theo dòng suy nghĩ của ta để đọc thầm trong đầu về những gì tâm hiện lên cho chúng ta thấy, khi rơi vào khoảng không ta lại quay về quan sát và đọc hơi thở của chính mình rồi lại đuổi theo tâm ta ... )...cũng phải mất khá nhiều thời gian mới trải nghiệm được phần nhỏ này ( nhưng chắc tùy theo nhân duyên của từng người sẽ nhanh chóng cảm nhận được hay là rất lâu.).
   Hy vọng với đoạn viết nhỏ này cùng điều trải nghiệm có ích của tự bản thân mình sẽ có ích cho mọi người khi  đọc nó và cảm nhận nơi Phật Pháp nhiệm mầu !


Thanh lọc Tâm từ thiền quán Tứ Niệm Xứ

( Bài viết này đã được đăng ngày 05/8/2013 tại đây:    http://yhoccotruyenvn01.blogspot.com/2013/08/thanh-loc-tam-tu-thien-quan.html )
  ( Hồ Ba Bể - tháng 05 năm 2013 )
    Khi bạn mệt mỏi, đau đầu hoặc khi cơn đau bệnh tật hành hạ cơ thể và cả khi gặp những vấn đề căng thẳng trong cuộc sống hàng ngày ... Hãy bình tĩnh, đến nơi yên tĩnh để thực hiện thiền quán. Đó có thể là một căn phòng mộc mạc đơn sơ, có thể là không gian tĩnh lặng của một khu vườn, khu rừng ... Và với tư thế cảm thấy thoải mái cho cơ thể nhất như có thể là thong thả đi bộ, nằm, hoặc ngồi xếp chéo chân  ...
Hãy từ từ hít thở không khí trong lành và lắng nghe không gian tĩnh lặng, bạn cảm thấy rõ nhịp thở của mình, rồi những bước chân thong thả trên thảm cỏ êm ... Bắt đầu ta quán sát cảm nhận của chính ta, đây là hơi thở phồng xẹp nơi bụng, không khí luồn êm bên cánh mũi, đây là nhịp nhấc rồi đưa chân bước đi, cùng đó đôi cánh tay đưa đẩy theo nhịp bước ... Bất thần tiếng chim hót lảnh lót bên tai, làn sương buổi sớm bay nhè nhẹ hơi mát lành bên má ... Rồi tự mình lại nghĩ sao ta cứ mải lao đầu vào công việc mà không để ý đến những điều nhỏ nhặt của tự nhiên, Thiên nhiên đang hàng ngày tác động xâm nhập vào ta , dòng suy nghĩ ấy cứ miên man trong khi đôi chân ta vẫn bước, hơi thở của ta vẫn theo nhịp điệu muôn đời ... Ta lại quay về quan sát hơi thở của mình ...
Vậy đấy, cứ quán sát kỹ càng qua thời gian tĩnh lặng ta lờ mờ nhận ra rằng ta có hai ta, đó là một thứ suy nghĩ được ta làm chủ  và một thứ chạy trước dẫn dắt ta, đây là điều kỳ diệu nhất sẽ thấy và cảm nhận rõ khi qua nhiều lần thiền quán. Hãy hình dung và cảm nhận đơn giản như trong khi ta đang nói chuyện với ai đó thì tâm của ta lại chạy đến một chỗ khác ví dụ như là lo về một công việc nào đó đang dở dang chẳng hạn, rồi câu chuyện đang nói sẽ bị ảnh hưởng, có thể dùng từ chợt nhớ về một việc gì đó cho hiện tượng này. 
Khi thiền quán, ta dùng suy nghĩ do ta làm chủ ( hiểu nôm na ) để đuổi theo sự đỏng đảnh của cái tâm vô hình ( tạm gọi vậy ) dẫn dắt và thầm niệm những hình ảnh, âm thanh trên con đường tâm vô hình gặp phải hay hiện diện rồi ta lại nhận thấy điều kỳ diệu nữa khi thấy trong ta có hai ta. Ví dụ nhỏ sau đây: khi ta mải đuổi theo tâm để đọc ( niệm ) các đối tượng xuất hiện thì có thể có hiện tượng chưa bao giờ ta thấy đó là cơ thể ta có những động tác không  do ta muốn ( điều khiển ) như nuốt nước bọt, gãi chỗ ngứa, thậm chí là trở mình ( nếu nằm quá lâu )...
Vâng, viết đến đây thì thú thực là cái tâm dẫn dắt của tôi đã ngắt dòng suy tư miên man trên và hướng cho tôi rằng cần đi vào vấn đề trọng tâm của những dòng chữ đầu tiên của bài viết này ...